TỪ TƯỢNG THANH TRONG DỊCH THUẬT

Nguyễn phước v.ĩ.n.h c.ố

A learner of the University of Google

TỪ TƯỢNG THANH LÀ GÌ ?

WHAT IS ONOMATOPOEIA?

Onomatopoeia /ˌɒnəˌmætəˈpiːə/ noun

Onomatopoeic /ˌɒnəˌmætəˈpiːɪk/ adj

Theo từ điển Longman về Giảng dạy Ngôn ngữ và Ngôn ngữ học Ứng dụng [tr. 255] https://www.routledge.com/Longman-Dictionary-of-Language-Teaching-and-Applied-Linguistics/Richards-Schmidt/p/book/9781408204603 thì ‘từ tượng thanh là ‘mô phỏng / bắt chước âm thanh tự nhiên bằng các từ hoặc nhóm từ, như trong tiếng Anh ‘moo’, ‘baa’, ‘cuckoo’. Có những từ khác là ví dụ về ‘bán tượng thanh’, chẳng hạn như từ tiếng Anh ‘swish’ , ‘growl’, ‘splash’. Các ngôn ngữ khác nhau ở sự lựa chọn các từ tượng thanh. Tiếng gà gáy ở tiếng Anh là ‘cock-a-doodle-do’; tiếng Nhật lại là ‘kokekokko’.

(imitation of natural sounds by means of words or groups of words, as in English ‘moo’, ‘baa’, ‘cuckoo’.There are other words which are examples of ‘semi-onomatopoeia’, such as  the English words ‘swish’, ‘growl’, ‘splash’. Languages differ in their choice of onomatopoeic words. An English cock goes ‘cock-a-doodle-do’; a Japanese one goes ‘kokekokko’.)

Từ điển Thuật Ngữ Ngôn Ngữ Học (sơ thảo) của Diep Quang Ban định nghĩa ‘từ tượng thanh’ (onomatopoeia) là ‘Trong nghĩa học, việc tạo ra các từ bằng cách trực tiếp bắt chước âm thanh của một thực thể nào đó, từ đó giống như là từ được liên tưởng đến vật có âm thanh đó như trong tiếng Việt có ‘mèo’ (tên con vật), ‘ếch ộp’ (gọi con ếch theo tiếng kêu của nó). 

Hai câu cuối trong định nghĩa của từ điển Longman cho ta thấy ‘Các ngôn ngữ khác nhau ở sự lựa chọn các từ tượng thanh. Tiếng gà gáy ở tiếng Anh là ‘cock-a-doodle-do’; tiếng Nhật lại là ‘kokekokko’.’ Vậy, ở tiếng Việt tiếng gà gáy là gì?

Theo một từ điển điện tử tiếng Anh thì ‘cock-a-doodle-doo’ chỉ tiếng gáy của con gà trống

https://www.yourdictionary.com/cock-a-doodle-doo

COCK-A-DOODLE-DOO /ˌkɒk ə ˌduːdl ˈduː/: refers to the crow of a rooster. An example of cock-a-doodle-doo is what a rooster on a farm says as he wakes everyone up …

Điều này cho thấy ‘âm thanh cuả con gà trống gáy’ trong tiếng Anh được viết thành ‘cock-a- doodle-doo’.

COCK-A-DOODLE-DOO Ở TIẾNG ANH LÀ CÚC CU CU?

Ở tiếng Việt, các từ điển giấy cũng như từ điển điện tử Anh-Việt đều cho từ tương đương với ‘cock-a-doodle-doo’ là ‘cúc cu cu’. Xin đưa ra hai ví dụ, một là một ví dụ từ từ điển Anh-Việt do Viện Ngôn Ngữ Học biên soạn (nxb Văn Hóa Sài Gòn) và một là từ điển điện tử (tratu.soha.vn).

Cock-a-doodle-doo /ˌkɒk ə ˌduːdl ˈduː/: (a) tiếng gáy của con gà trống; cúc cu cu (b) dùng nói với trẻ em và trẻ em thường nói) gà trống (tr. 323 từ điển Anh-Việt).

Cock-a-doodle-doo

/Phiên âm này đang chờ bạn hoàn thiện/

 Thông dụng

Danh từ

Cúc cu cu (tiếng gà gáy)

(tiếng lóng) gà trống (tratu.soha.vn)

CÚC CÙ CU VÀ SỔ TAY NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH CỦA HỮU NGỌC

Trong cuốn sách ‘Sổ tay người dịch tiếng Anh’ của N.H Việt Tiến, Hữu Ngọc … cũng đã ‘bé cái nhầm’ khi cho từ tượng thanh của con gà trống là ‘cúc cù cu’ (?) và từ tương đương ở tiếng Anh là ‘cock-a-doodle-doo’ (tr.31, mục ‘tiếng loài vật’)

CÚC CU CU HAY Ó Ò O?

Tôi khá băn khoăn giữa ‘cúc cu cu’ và ‘ó ò o’ nhưng khi xem lại ảnh sách Tiếng Việt lớp 1, tập 1 ngày xưa (NXB Giáo dục ấn hành năm 1990, mở đầu là bài con gà trống ‘Ò ó o’ …

Khi tham khảo thêm từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (NXB Khoa học Xã hội, 1994) tiếng ‘O O’ ở chữ cái O (tr. 612) thì  O O có hai nghĩa ‘Tiếng người ngáy hoặc gà gáy’: Ngáy o  o; Gà gáy o o.

Từ điển Việt-Anh của hai học giả có uy tín Đặng Chấn Liêu và Lê Khả Kế (NXB, Khoa học Xã hội, 1992) cho tương đương tiếng Anh tiếng ‘O O’ là 1. Snore Ngáy o o To snore 2. Cock doodle doo . Gà gáy o o The cock crowed a cock-a-doodle-doo.

TIẾNG GÀ GÁY LÀ CÚC CÙ CU HAY Ò Ó O?

Trong thơ của nhà thơ Nam Hương tên thật Bùi Huy Cường (1899-1960) có bài thơ ‘Gà Gáy Sáng’ có 5 khổ thơ mỗi khổ đều bắt đầu bằng ‘Cúc cù cu!’

Trong một bài viết của Trần Đăng Khoa: Tô Hoài, tôi rất mê ông!

Trần Đăng Khoa tình cờ đọc được một truyện ngắn viết cho trẻ em của ông. Cái truyện có tên là “Ò… ó… o…”.

Truyện kể một cậu bé ở thành phố, về nghỉ hè ở nhà bà ngoại. Bà sống ở quê. Suốt ngày cậu chạy nhảy, vui chơi với bao trò chơi thú vị mà ở thành phố không có. Mới chập tối, mệt quá, cậu thiếp đi. Ngủ chưa được bao lâu, mắt vẫn cay sè, đã nghe gà gáy inh ỏi. Ngoài cửa nhờ nhờ. Cậu bé nhìn ra, thấy bà vẫn cặm cụi thái lá dâu cho tằm, dì vẫn kì cạch dệt lụa. Chưa có ai đi ngủ cả. Trời mới tối được một lúc. Thế sao gà đã gáy? À, đấy là mấy chú gà nhầm, thấy ánh điện nhà máy bên kia sông hắt sang, gà tưởng sáng nên thi nhau gáy.

Cái truyện chỉ có thế. Nhà văn Tô Hoài ca ngợi sự đổi mới của nông thôn. Đấy là một chủ đề khá phổ biến trong văn chương Việt Nam những năm sáu mươi. Hồi ấy, tôi rất thích cái truyện ngắn này. Cái truyện gợi cho tôi viết bài thơ “Ò…ó…o…” với nội dung khác hẳn. Nhưng “Ò…ó…o…” là chữ của Tô Hoài.

Trong sách ‘Tập đọc lớp ba’ của chúng tôi thời ấy, tả tiếng gà, người ta lại dùng chữ ‘cúc cù cu’ . Một bài Học thuộc lòng thời ấy thế này: ‘Cúc cù cu! Cúc cù cu! Sáng rồi đây. Nông dân vác cuốc vác cày. Ra đồng cày cuốc cho đầy nồi cơm”… Những bài học thời ấy phải nói là rất nôm na, dễ dãi.

‘Cúc cù cu’ là tiếng chim bồ câu gù chứ không phải tiếng gà. Nếu lấy tiếng chim bồ câu để báo sáng thì không phổ cập. Vì chỉ những gia đình trung nông trở lên mới nuôi chim bồ câu. Còn với những người nông dân “Vác cuốc vác cày. Ra đồng cày cuốc cho đầy nồi cơm” thì chỉ tiếng gà mới gần gũi với họ. “Ò… ó… o…” quả là một đóng góp của Tô Hoài. Tôi lấy mấy chữ ấy của ông. Và để tỏ lòng biết ơn ông, sau tên bài “Ò… ó… o…” tôi đã ghi một dòng rất trang trọng : ‘Kính tặng chú Tô Hoài”, dù lúc ấy, tôi chưa từng gặp ông, và ông cũng chẳng biết tôi là cái thằng bé nào…  

An Khê, Thanh Khê, Đà Nẵng 14/03/2024  

Bình luận về bài viết này